Trọng lực vệ tinh khu vực Biển Đông
Trọng lực vệ tinh biển là phương pháp đo dị thường trọng lực biển thông
qua việc đo chiều cao mặt nước biển trung bình bằng thiết bị rađa đo độ
cao. Thiết bị gắn trong vệ tinh bay trên quĩ đạo cách Trái Đất khoảng
800 km. Rađa đo độ cao hoạt động trên nguyên tắc của trường điện từ, gồm
3 bộ phận chính: 1) bộ phát xung điện từ với tần số mang 13.5 GHz; 2)
bộ thu sóng phản xạ từ mặt nước biển; 3) bộ đếm thời gian truyền sóng
tới và sóng phản xạ từ mặt biển. Độ lệch bình phương trung bình giữa số
liệu trọng lực vệ tinh và số liệu đo trọng lực thành tàu từ (2-4) mGal.
Hiện nay trọng lực vệ tính đã đo phủ toàn bộ các vùng biển trên thế giới
từ 80.3780 Bắc đến 80.3780 Nam với lưới số liệu đều 1’ x 1’. Nếu dùng
toàn bộ số tầu biển hiện có của thế giới để đo thì phải mất khoảng 120
năm mới đo xong được bộ số liệu này.
Hình 1 là bản đồ trường dị thường trọng lực vệ tinh khoảng không tự do
khu vực Biển Đông. Đây là nguồn số liệu phiên bản mới do Viện Hải dương
học Script, Hoa Kỳ công bố (Sandwell và Smith, 2009). Dị thường trọng
lực vệ tinh này là kết quả của việc xử lý các số liệu đo độ cao của vệ
tinh ERS-1 và GEOSET/GM. Trong quá trình hiệu chỉnh số liệu các tác giả
đã sử dụng mô hình trọng lực toàn cầu EGM208 với độ chính xác cao nhất
làm trường trọng lực tham chiếu. Dị thường trọng lực khoảng không tự do
trên khu vực Biển Đông có giá trị thay đổi từ -200 đến 200 mGal. Vùng có
giá trị dị thường thấp nhất thuộc đới hút chìm Manila. Hầu hết các đơn
vị cấu trúc, kiến tạo chính như trục tách giãn, đới hút chìm, các bồn,
các đảo ngầm đều được thể hiện khá rõ và đầy đủ trên dị thường trọng lực
vệ tinh. Kết quả phân tích số liệu trọng lực này cho phép chúng ta xác
định được độ sâu đáy biển, bề dày trầm tích, độ sâu mặt Moho, hệ thống
đứt gãy, phân vùng cấu trúc kiến tạo v.v…
http://repository.vnu.edu.vn/handle/VNU_123/18639
http://repository.vnu.edu.vn/handle/VNU_123/18639
Nhận xét
Đăng nhận xét